Nghệ thuật dân tộc tự hào có bác Mịch Quang
23/09/2020
Tôi vinh hạnh được biết bác Mịch Quang từ năm 1986 qua một bài viết trên tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật của Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam, nội dung bác nói về sự liên quan giữa nghệ thuật Ca trù với Hát Tuồng. Khi đó tôi vừa trở về sau 5 năm học tập và nghiên cứu tại Cộng hòa Ấn Độ. Tôi đã đọc bài báo đó rất nhiều lần, những mong tìm cho mình những điều cần học hỏi về phương pháp thanh nhạc truyền thống. Còn có một điều đặc biệt quan trọng mà tôi nhận thức được cũng từ bài viết đó của bác chính là vấn đề phương pháp luận. Một phương pháp biện chứng vô cùng khác biệt không như những gì tôi đã hoc, đã biết bấy nay. Ở đó không đơn thuần là việc mô tả, phân tích từ xâu chuỗi những hiện tượng âm nhạc giữa Ca Trù và Hát Tuồng mà còn cao sâu hơn thế, đó chính là phương pháp “Âm nhạc so sánh học” để từ đó tìm ra mô hình cấu trúc từ những hạt nhân cơ bản (như có lần GS Hoàng Chương ví nó như các mẫu ADN được các Nhà Khoa học tìm ra vậy). Ở đây, bác Mịch Quang cho rằng, từ những âm tiết nhỏ nhất được sắp xếp lại theo những quy luật vừa mang tính ngẫu nhiên, ngẫu hứng vừa như bất biến vừa như khả biến (thuật ngữ của bác Mịch Quang dùng chính xác là hai bộ phận: Cụ thể bất biến – Cụ thể khả biến) rồi mang đối chiếu chúng với nhau.
Từ cuối những năm 70, đầu 80, thế kỷ XX, tôi từng biết đến phương pháp này qua những cuộc tiếp xúc với các nhà nghiên cứu âm nhạc thuộc Viện Âm nhạc So sánh Học CHLB Đức. Và tôi thực sự bất ngờ bởi những đúc kết vô cùng quan trọng về thanh nhạc dân tộc lại đã nằm sẵn từ lâu, ngay trong công trình nghiên cứu của bác Mịch Quang. Chỉ tiếc rằng các bậc thầy thanh nhạc ở trong nước lại ít quan tâm tới (trong đó bao gồm thầy tuồng, thầy chèo, thầy dạy các bộ môn thanh nhạc dân gian truyền thống lẫn Opera ở các trường nghệ thuật).
Để đưa ra được một định nghĩa mang tính nguyên lý, khái quát cao như một định luật cho loại hình kịch hát dân tộc như : “Tự sự – Kịch tính – Trữ tình”, bác Mịch Quang đã phải dày công nghiên cứu đến thế nào. Tôi tiếp tục tìm đọc những bài viết khác về bác của các học giả, các nhà nghiên cứu nghệ thuật trong và ngoài nước như GS Trần Bảng, GSTS Trần Văn Khê, Viện sỹ Hoàng Trinh, GS Hoàng Chương, GSTS Nguyễn Thuyết Phong, GS T. Miller, GS Hồ Sỹ Vịnh…Tôi còn phỏng vấn để lấy những ý kiến của các nghệ sỹ bậc thầy như cố NSND Võ Sỹ Thừa, các NSND Đàm Liên, Mẫn Thu, Đình Bôi, Phương Thảo, Hòa Bình…rồi cả những bài viết của các danh nhân đương thời như tướng Nam Khánh, nhà báo Hà Đăng, GS Đình Quang, PGS Tất Thắng, PGS.TS Đoàn Thị Tình, Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ…và rất nhiều tác giả, nghệ sỹ, nhạc sỹ nữa. Ai ai cũng ngợi ca những phát kiến táo bạo từ các công trình nghiên cứu khoa học của bác trong lĩnh vực nghệ thuật Dân tộc. Tôi còn được xem trực tiếp nhiều vở tuồng hết sức hấp dẫn mà bác là soạn giả, được tham gia viết nhạc cho vở tuồng “Thanh gươm hát bội” rất hay mà bác là tác giả, thấy bác còn đặt sẵn các làn điệu cho các câu hát, chỉ cho diễn viên các bộ diễn, cho họa sỹ những thiết kế, trang phục, đạo cụ… chỉ cho tôi cách viết những đoạn nhạc nền sao cho thấm đậm phong cách Tuồng truyền thống, giữa các tình huống kịch, hài hòa, phù hợp với phương pháp diễn tấu “vào thủ ra vĩ” của nghệ nhân.
Với những gì mà các nhà khoa học, Nghệ nhân và nghệ sĩ đương thời nhìn nhận về bác Mịch Quang và cảm nhận của cá nhân, nếu tôi nói rằng bác Mịch Quang là “Đào Tấn thời nay” không biết có quá hay không?.
“ Cấu trúc Động – Mở trong âm nhạc Việt Nam” và “ Cấu trúc Tĩnh – Đóng trong Âm nhạc Phương Tây”. Chỉ với một nguyên lý như vậy là đủ tầm khái quát sự khác biệt có tính hệ thống âm nhạc nước nhà với âm nhạc phương Tây. Đủ để mở ra sự nhận thức mới mẻ, dễ hiểu cho giới âm nhạc Phương Tây và thực tế nó đã giúp cho những người còn lơ mơ về âm nhạc truyền thống Việt Nam một chiếc chìa khóa để tự khai mở cả một kho tàng quý giá. Bác là một biểu tượng của tính độc lập trong nghiên cứu khoa học và sáng tạo nghệ thuật, không hề dựa dẫm vào những cơ sở lý thuyết và khuôn mẫu của bất kỳ âm nhạc nước nào để dựa vào, tìm đến, để khám phá đặc trưng âm nhạc truyền thống VN. Bác tự tin tìm thấy trong kho tàng lý thuyết, triết học nước nhà và cả những ngành khoa học hiện đại thế giới những cơ sở khoa học cho phương pháp nghiên cứu độc lập của mình như Kịnh Dịch, Phật học, Sinh học, điều khiển học… Bác vận dụng uyển chuyển cả những thuật ngữ dân gian vốn có như “Bài” – “Bản”, “ Ca” – “Hát”, “Luyến – Láy” …và các thuật ngữ khoa học mới như “Mô hình”, “Cấu trúc”…trong các công trình nghiên cứu của mình. Tuy vậy, ít khi thấy Bác dùng tiếng Tây tiếng Tầu cho các chú thích, mặc dù như tôi biết, bác đã từng làm thơ chơi bằng tiếng Pháp rồi dịch sang chữ cả Hán để giải trí, giải sầu khi trà dư tửu hậu.
Tôi không có may mắn được biết bác Mịch Quang và tiếp cận với các công trình nghiên cứu và những phát hiện giá trí của bác sớm, lý do ấy cũng một phần vì bác không hề muốn tự giới thiệu vinh danh mình như một số người khác. Suốt cuộc đời, bác luôn âm thầm lặng lẽ trong suy tư nghiên cứu tìm tòi và sáng tạo. Phần vì chúng tôi xưa nay vốn thường chỉ say sưa với lý luận Tây, Tầu, mơ ước đi Tây, Tầu du học…Nếu như được biết bác sớm chắc rằng tôi sẽ chưa phải đi tu nghiệp tại Cộng hòa Ấn Độ năm năm trời đằng đẵng. Chỉ cần theo bác, học bác và các bậc thầy khác về âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam đã là quá đủ.
Giữa lúc các viện nghiên cứu trong nước ngày một nhiều thêm, tên các Viện thay đi đổi lại nay tên này mai tên khác, nay sát nhập, mai tách ra, các cơ sở đào tạo đua nhau cho ra lò hàng ngàn tiến sỹ mỗi năm. Song công trình nghiên cứu có giá trị và những phát minh khoa học lại cho thấy ngày một ít đi. Thật vô cùng lãng phí kinh phí đầu tư của nhà nước và phụ lòng mong đợi của công chúng và các đơn vị Nghệ thuật. Rất may mắn là còn có những người như bác Mịch Quang dám hy sinh tất cả thời gian, sức lực, tiền của và mọi quyền lợi cá nhân, một mình một khoảng trời riêng cống hiến cho sự nghiệp. Bác là niềm tự hào của chúng tôi, của nghệ thuật dân tộc.
Ngoài những công trình nghiên cứu, bác Mịch Quang còn dành cho đời những tác phẩm sân khấu Tuồng lừng lẫy, đó là cả một sự kiên định không đổi thay trên con đường sự nghiệp mặc cho dòng đời xoay chuyển. Thành công nối tiếp thành công, bác Mịch Quang đã cho chúng tôi bài học về những giá trị của cuộc sống bình dị, bác làm việc theo sự mách bảo từ trái tim khối óc mình, từ kho tàng tri thức của riêng mình và cả niềm đam mê vô bờ bến với nền nghệ thuật dân tộc. Đạo nghệ và cuộc đời bác là sự kết tinh chất xám vun đắp cho cây đời mãi mãi xanh tươi.
Ngọn muốn vươn tột đỉnh tương lai – Gốc cần bám tận cùng quá khứ
Bác Mịch Quang là người thầy mà tôi thần tượng, tôi yêu quý tôi kính trọng, tôi khâm phục bởi các “Âm luật” trong các công trình nghiên cứu KH về nghệ thuật dân tộc của bác, tôi thích thú những vở tuồng do bác soạn, tôi say sưa, chăm chú, học hỏi qua những buổi dàn dựng của bác với tư cách một Thầy Tuồng thực thụ bên cạnh Đạo diễn cấp cao – GS Hoàng Chương.
Những khám phá táo bạo, những phát minh giá trị trong nghiên cứu KH về nghệ thuật Dân tộc của bác Mịch Quang, và tấm gương sáng trong Đạo Nghệ của bá đã và sẽ mở đường cho các thế hệ những nhà nghiên cứu nước ta hiện tại và tương lai.
Kính thưa quý vị
Trong dân gian đến nay còn lưu truyền câu:
“ Cầm – Ca – Cung – Lý xưng vô địch
Truyền tụng nhân gian trứ hữu danh”
Tôi ao ước khắc dòng chữ này thật trang trọng để kính tặng Bác nhân buổi hội thảo mừng bác
ĐẠI THỌ BÁCH NIÊN.
Hà nội mùa đông 2018
Nhạc sỹ Thao Giang
TT. Phát triển nghệ thuật Âm nhạc Việt nam