Kinh Dịch với Mịch Quang
23/09/2020
Nếu NSND Sỹ Tiến được coi là ông tổ cải lương Bắc, người đầu tiên nghiên cứu và viết Bộ công trình: Lịch sử Tuồng, Chèo, Cải lương, Âm nhạc Việt Nam, thì Mịch Quang đã dành cả cuộc đời chuyên sâu để thành một nhà Tuồng học. Trong các tác phẩm của tác giả sống ngót trăm năm này, Kinh Dịch và nghệ thuật truyền thống là độc đáo, tầm cỡ nhất.
Điều gần gũi giữa hai học giả Sỹ Tiến (1916-1982) với Mịch Quang dù có khác biệt vẫn gặp nhau ở tâm huyết sinh nghề tử nghiệp mà cống hiến một sự nghiệp sáng giá. Theo nghề diễn viên từ khi 9 tuổi, sớm theo các gánh hát vào Nam; thành tác giả, đạo diễn, người đặt nền móng cho cải lương Bắc với vai trò tổng thể, coi tuồng là gốc, đề cao diễn xuất – vũ đạo, trước và sau khi nghỉ lưu, NSND Sỹ Tiến là chuyên viên cao cấp của Viện Nghệ thuật sân khấu (SK). Mịch Quang (Nguyễn Thế Khoán), sinh trưởng trên đất tuồng Bình Định, cùng huyện Tuy Phước với danh nhân tuồng Đào Tấn (1845-1907), tuồng gắn cuộc sống của ông từ nhỏ. Ông từng nói: “Sỹ Tiến là một tài năng đa dạng mà tôi kính trọng. Là người đi sau, tôi đã tham khảo, kế thừa những nghiên cứu giá trị cao của ông. Ông mất sớm là thiệt thòi cho giới sân khấu”. Họ cùng niềm đau đáu thiết tha với kịch hát dân tộc. Chứng kiến và trân trọng họ tại Viện NTSK ngày ấy, là đạo diễn Hoàng Chương, tu nghiệp ở Rumani và được nước này phong giáo sư. Mịch Quang, với quãng đời dài gần thế kỷ, hiện là nhà nghiên cứu cao tuổi nhất của SK nước nhà.
Cũng như Sỹ Tiến, không có học hàm, học vị, tất cả do tự học, nhưng tầm vóc kiến thức, vốn Pháp văn vững vàng và độ say nghề quá ngưỡng đã khiến các ông thành bậc thầy. Trong các bài viết gửi tới Hội thảo về Mịch Quang sáng 28/5, đáng chú ý có đánh giá của GS Vũ Khiêu về việc Mịch Quang sử dụng triết học để biến giải, phân tích tuồng. Mịch Quang đã đạt tầm mức nhà khoa học của nghệ thuật. Bởi nhận thức “Triết học là khoa học của khoa học”, ông tư duy theo nguyên lý triết học phương Đông để tạo thành phương pháp luận. F.Ăngghen quả quyết: “Các nhà bậc học muốn làm gì thì làm, họ vẫn bị triết học thống trị”. Từ sự “thống trị” ấy, Mịch Quang xoay vần khám phá tuồng và nhạc dân tộc theo vận động âm dương ngũ hành.
GS Vũ Khiêu viết: ” Vận dụng đỉnh cao của triết học phương Đông là Kinh Dịch, bằng cách nắm vững Nho-Phật- Lão mang dấu ấn Việt Nam để chọn thành phương pháp luận, Mịch Quang đã nối liền những điểm sâu sắc nhất của triết học với những điểm cụ thể của nghệ thuật”. Nhờ thế, ông làm sáng tỏ các điệu thức, nguyên lý của âm nhạc, kịch hát dân tộc trong cái mà ông gọi là “sân khấu tổng thể”, tức là tập hợp các thể tài, thể loại, dạng thức thể hiện trong quan hệ sinh học, biện chứng, tương hỗ, biến hóa.
ở cuốn sách 500 trang Kinh Dịch và nghệ thuật truyền thống, thật thú vị khi tác giả tiết lộ lý do lựa chọn Kinh Dịch của Khổng Tử làm chìa khóa tìm ra những nguyên lý của âm nhạc truyền thống Việt. “Thầy Cao Xuân Huy (học giả, nhà ngôn ngữ học – VTL) nói Kinh Dịch là bộ sách nói về cái lẽ rất giản dị mà biến hóa của con người. Đó là nghĩa của chữ Dịch”.
Mịch Quang vẽ sơ đồ bát quái (tám quẻ) và bằng xúc cảm của người đất tuồng được kìm nén, ông phong tỏa và gợi mở những ý niệm trong nguyên tắc “một đóng một mở là biến như quẻ 64 “vật cực tắc phản”. Đóng lại là Càn (động), mở ra là Khôn (tĩnh). Từ đây, ông có thuyết “Cấu trúc – động – mở trong âm nhạc truyền thống”. Không chỉ riêng với thanh niên, cuộc sống công nghiệp khiến lương công chúng của tuồng ngày càng ít đi. Nhưng đọc Mịch Quang, lại được xem GS Hoàng Chương thể hiện các tích tuồng, thấy tuồng có vẻ đẹp cổ điển đầy trí tuệ và thu hút. Bộ của hát bội, bao gồm động tác và vũ đạo, đặc biệt vũ đạo tuồng, là mẫu mực của nghệ thuật kịch hát. Mặt đỏ là trung thần, mặt trắng là gian thần, những hiểu biết sơ lược nhằm phân biệt vai tuồng. Như hiện ra vô cùng biến ảo của vô vàn mặt nạ tuồng dân xen. Vang ngân ngũ cung rơi 5 điệu: Cung – Thương – Vũ – Giốc – Chủy theo ngũ hành, tương ứng với Năm Hơi: hơi Xuân – hành Mộc (màu xanh), hơi Dựng – hành Hỏa (màu Đỏ), hơi Ai – hành Kim (màu trắng), hơi Oán – hành Thủy (màu đen), hơi Đảo – hành Thổ (màu vàng). Sự tồn tại nhất nguyên và chuyển hóa lẫn nhau của âm nhạc theo bản chất của sự vật.
Trong “cấu trúc động – mở có nhịp điệu xuyên suốt” của nhạc dân tộc và bản nhạc đời ông, Tuồng là sự sống. Ông đã tham khảo, dịch những công trình nghiên cứu của Pháp, Nga, Trung Quốc mà soi chiếu, giải mã, các kiến thức chuyên sâu, hào hứng và chủ động. Ông nhận ra các loại giọng ruột, giọng gan tạo hiệu quả xem (cảm xúc bên trong biểu lộ trên nét mặt, tay), từ tính biểu đạt dẫn đến tính sân khấu. Sao khán giả lại thờ ơ với tuồng? Nếu biết nhiều cái hay của nó, qua độ sâu mà Mịch Quang công bố, chắc hẳn người ta sẽ tiếc khi đã bỏ qua tuồng”. Mịch Quang viết: “Kỹ thuật lấy hơi của hát tuồng là kỹ thuật ngữ khí học của thanh nhạc, có liên quan đến ngũ tạng, trên mối tương quan từ y học cổ xưa tới hôm nay”.
Cách đây 40 năm, Mịch Quang là người đã giới thiệu ôpera Việt Nam – tuồng cổ với anh em nhà kịch câm người Pháp nổi tiếng thế giới Marcel Marceau: “Sân khấu tuồng Việt Nam là sân khấu tổng thể tích hợp – trong nói có hát, trong hát có nói, trong kịch câm có múa”.
Từ 20 năm trước, Mịch Quang đã buồn, lo lắng vì sự mai một, thưa vắng của kịch hát dân tộc trong đời sống. Dù cấu trúc nguyên lý đóng – mở của theo biến hóa Kinh Dịch và nhiều nghiên cứu được giảng tại Mỹ; có bài in trên tạp chí, công trình lưu tại thư viện đại học Pháp, Mỹ, song Mịch Quang không bao giờ chấp nhận sự biến đổi và thay thế.
Nguyễn Thế Khoán bảo vệ nghệ thuật truyền thống một cách quyết liệt, cực đoan như thể cả đời vô nghĩa nếu bứt khỏi tuồng. Bút danh Mịch Quang đã là một đỉnh. Đỉnh đơn độc theo cả 2 nghĩa: có rất ít người bỏ cả cuộc đời miệt mài kiếm tìm và chắt lọc để có một sản nghiệp cống hiến cho tuồng, và cực hiếm ai qua cửu thập vẫn còn ham viết, còn nhớ nghề, còn canh cánh với những gì đã làm, luôn thấy thiếu, luôn muốn tiếp…
Hai GS, TS Trần Văn Khê và Nguyễn Thuyết Phong sống ở Pháp, Mỹ nhiều năm, miệt mài giới thiệu, tôn vinh âm nhạc dân tộc Việt Nam khắp thế giới. GS Hoàng Dương dạy và diễn tuồng cho SV Mỹ. Mịch Quang chưa từng được đi nước ngoài. Sống tại Hà Nội từ 1955 tới 1975 vào Nha Trang và 2005 trở lại, cả đời ông chỉ xê dịch trong đất hình chữ S. Chính ông đã khẳng định chữ S đường cong chia lưỡng nghi Âm – Dương cũng là đường cong trong thanh nhạc dân tộc. Và giờ, khi GS. Nguyễn Thuyết Phong về nước, dự kiến lập Đại học Đào Tấn ở Đồng Nai, Mịch Quang vẫn hào hứng muốn làm thầy. Nhưng ông không đủ sức nữa.
Vợ mất từ 1999, ông đang sống tại ngôi nhà rất đẹp cùng con gái thứ Ngọc Khuê. Trên căn phòng tầng 2, lão tướng Mịch Quang rất nặng tai lại hay quên đeo máy nghe, bỗng trở nên linh hoạt, khi có bạn nghề hay nói đến tuồng. Nhà báo Nguyễn Thế Khoa (phó TBT tạp chí Văn hiến) là người gần cha nhất, anh gìn giữ tác phẩm, lo in ấn, làm hội thảo cho ba. Các con cháu đều đoàn kết cùng chăm sóc ông với niềm kính trọng, tự hào…
Giữa cuộc sống vũ bão chứa chất không ít phũ phàng, nếu mai kia không còn hai lão tướng còn lại như Mịch Quang, Trần Bảng, thì lớp kế cận là ai để làm thành “cấu trúc nhịp xuyên suốt” như Mịch Quang tìm thấy, chất chứa khát vọng lớn của đời ông. Bất giác, tôi như thấy hằng hà mặt nạ tuồng với các sắc thái lượn khắp sân khấu đời. Và ở góc phía Tây thành phố, hiện lên hình ảnh mùa Đông năm ngoái. Mịch Quang ngồi trên chiếc giường đôi bộn bề chăn sách sổ bút và có tới 4 cặp kính lão lẫn trong “mê hồn trận” ấy. Tìm đủ số kính lão, ông cầm cả kính lúp để soi trang viết dở dang từ cuốn sổ viết tay và dồn hơi đọc câu Nhạc ký: “Khí đất bốc lên, khí trời bay xuống. Âm Dương giao hòa. Vạn vật sinh ra do tiếng vang đột nhiên của sấm sét, thúc đẩy bởi mưa gió, vận hành theo mặt trời, mặt trăng. Âm nhạc mô phỏng sự hài hòa ấy giữa Trời và Đất”. Cự tuyệt mọi cải biên, Mịch Quang cố công tìm lại và bảo lưu những gì thuộc về di sản dân tộc, như lõi của lẽ sống. ở tuổi 95, ông vẫn minh mẫn với chỉ một ước mơ bền bỉ: Kịch hát dân tộc sẽ được chấn hưng và rạng rỡ trong di sản mỗi tâm hồn Việt. ánh sáng sân khấu luôn cuốn hút những người như ông, dù cho chọn lại hay có thêm kiếp sau, vẫn lao về phía ánh sáng ấy.
Vi Thuỳ Linh