Lặng lẽ Mịch Quang

23/09/2020

Tôi quen biết rồi chơi với con trai ông, nhà báo Thế Khoa ngót hai chục năm, nhưng mắc lỗi lớn là đứng “trước núi mà không thấy núi”. Vâng! Tôi ân hận vì không sớm biết đến cái tầm vóc, và đức độ của ông – một nhà nghệ thuật học dân tộc rất đáng kính trọng. Bây giờ đây ngồi trước ông, được diện kiến cái con người bỏ gần cả cuộc đời cho sự nghiệp nghiên cứu nghệ thuật dân tộc này, câu chuyện đời ông, một cuộc đời không màng danh lợi, với đam mê dâng hết cho đời càng làm tôi quý trọng ông nhiều.

Nhà nghiên cứu Mịch Quang.

Có lẽ không có lời nào hay hơn GS âm nhạc Trần Văn Khê khi nói về Mịch Quang: “Trong cuộc đời hoạt động của tôi, một trong những người tri âm tri kỷ hiếm có, vừa là bậc thầy vừa là người bạn tâm đắc của tôi là anh Mịch Quang”.

Nói đến sự nghiệp Mịch Quang có lẽ cần phải nói đến những đóng góp của ông trong lĩnh vực nghiên cứu nghệ thuật dân tộc. Nhưng gọi ông là nhà nghiên cứu chắc có lẽ lại không đầy đủ bởi trước tiên, ông là soạn giả, là nhà thơ, là diễn viên…

Mịch Quang tên là Nguyễn Thế Khoán. Ông sinh ở xứ dừa, xứ tuồng Bình Định, lại xuất thân từ gia đình Nho học. Cha ông, cụ Tú Diệu Liên cư sĩ là nhà thơ cổ điển, từng cộng tác với báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng, cũng là một nghệ sĩ từng cầm chầu có tiếng và viết phê bình nghệ thuật… Cậu bé Khoán ngày xưa từng mê mải xem hát bội, mê mải nghe cha giảng về cái tuyệt vời của nghệ thuật tuồng truyền thống mà đâm mê tuồng. Nhưng rồi cuộc đời chàng thanh niên ấy lại được định hướng theo một ngả khác: anh phải học hành để trở thành trí thức… Thế rồi thời học Quốc học ở Quy Nhơn, Nguyễn Thế Khoán đã có năng khiếu ca hát và từng tham gia đoàn văn nghệ của trường do anh Huỳnh Văn cát phụ trách. Huỳnh Văn Cát đi làm sở Điện lực Nha Trang, lập đội cải lương Ninh Hòa hoạt động Việt Minh tuyên truyền tư tưởng cách mạng, Nguyễn Thế Khoán lúc này bộc lộ năng khiếu bẩm sinh vừa tham gia hát tân nhạc và cải lương trong đội nghệ thuật Cải lương….Vào Vệ quốc đoàn, Nguyễn Thế Khoán làm trưởng ban văn hóa Trung đoàn 94. Một thời về Bình Định, ông là Ủy viên thường vụ Phân hội Văn nghệ Bình Định bên cạnh Vương Linh, Tô Hải. Suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Thế Khoán lúc này là Mịch Quang vừa làm thơ vừa tổ chức văn nghệ phục vụ kháng chiến và anh cũng là diễn viên đa năng: ngâm thơ, hát mới chơi dàn tây và cả hô Bài Chòi… Bạn ông, Trung tướng Nguyễn Nam Khánh từng viết những dòng đầy tự hào về Mịch Quang: ” Từ suốt quãng đời công chức phiêu bạt khắp nơi: Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Campuchia, Khánh Hòa. Ông đã tự bổ sung thêm vốn tích lũy của mình và cách mạng tháng Tám tạo ra bước ngoặc và niềm tự hào đi chuyên nghiệp vào nghệ thuật. Bút danh Mịch Quang đã được Cách mạng Tháng Tám khai sinh trên nguyên quán Bình Định, trú quán Khánh Hòa để nhập ngũ vào Trung đoàn 94. Mặc dù không còn tại ngũ sau 1948, nhưng Mịch Quang vẫn phấn đấu như một chiến sĩ nghệ sĩ từ ấy đến nay trên mặt trận văn hóa nghệ thuật của nước nhà. Anh là một nghệ sĩ cựu chiến binh rất đáng tự hào”.

Tập kết ra Bắc, Mịch Quang về làm Biên tập viên văn nghệ Đài TNVN, viết thơ truyện ngắn, tùy bút… Nhưng hình như tâm trí ông vẫn hướng về nghệ thuật tuồng và dồn tình yêu đối với danh nhân tuồng Đào Tấn. Chẳng thế mà khi bước sang điạ hạt nghiên cứu, ông là người đầu tiên phát hiện và giới thiệu Đào Tấn trên văn đàn Việt Nam…

Cho đến bây giờ, ông đinh ninh lời Hồ Chủ tịch khi được vinh hạnh bất ngờ gặp Người đến thăm khu Văn Công Mai Dịch. “Trong dịp tôi được phân công trực Tết, tình cờ Bác Hồ đến thăm Khu Văn công. Khi vào Ban Nghiên cứu, hỏi chuyện chúng tôi, Bác bảo:

“Đừng để những tiêu chuẩn này nọ của nghệ thuật phương Tây trói buộc khiến ta không thấy hết cái hay cái đẹp của nghệ thuật dân tộc ta”.

Từ đấy, tôi luôn tâm niệm lời dạy của Bác, không để những tiêu chuẩn nghệ thuật phương Tây ràng buộc, phát huy tư tưởng độc lập tự chủ trong nghiên cứu. Năm 1963, tôi cho ra công trình đầu tiên “Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật tuồng” do Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành, nhà thơ Bảo Định Giang đề tựa.

Năm 1975, lúc đất nước vừa thống nhất lại làm một cuộc “dời đô” lớn về lại quê hương. Ông tâm sự. Trong ý tôi định về Bình Định, nhưng chưa kịp nói, Khoa, con tôi, đã xin đi Phú Khánh, tôi đành phải xin đi Phú Khánh luôn cho có cha có con.          Một thời hai cha con ông đảm trách hai đoàn nghệ thuật lớn của tỉnh lớn Phú Khánh. Cha thì phụ trách đoàn tuồng còn người con, nhà báo,  nhạc sĩ Thế Khoa thì lãnh đạo đoàn ca nhạc Hải Đăng…Dù vậy ông vẫn ra Bắc vào Nam gặp gỡ trao đổi với bạn bè đồng nghiêp, vẫn đau đáu với công việc nghiên cứu kịch hát dân tộc…

Cuối cùng thì tuồng đã chọn Mịch Quang là người vinh danh cho mình, khi chỉ bốn năm đầu tiên làm công tác nghiên cứu, ông đã cho ra mắt công trình đầu tiên về nghệ thuật này: cuốn Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật tuồng như một cách mở màn cho một sự nghiệp khám phá tuồng sâu sắc, dài lâu…Điều kỳ diệu cho tuồng là đã có Mịch Quang khi ông “đính chính” lại khái niệm ‘hát khách” để bác bỏ thuyết cho rằng Lý Nguyên Cát là người đầu tiên dạy tuồng cho người Việt. Theo ông, “hát khách” không phải là hát “tầu” mà là cách hát đối đáp giữa chủ và khách…Với tuồng, ông gần như gắn cả cuộc đời vào đấy với  Đào Tấn, với những công trình nghiên cứu mang tầm vóc sâu sắc khoa học mà sau Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật tuồng là Đặc trưng nghệ thuật tuồng”. PGS Tất Thắng từng khẳng định: Mịch Quang đã có những đóng góp quan trọng, cơ bản không chỉ cho tuồng, mà cả kịch hát dân tộc” Nghiên cứu, giới thiệu và vinh danh Đào Tấn, Mịch Quang còn viết hẳn cả một vở tuồng về danh nhân quê hương – vở Thanh gươm Hát bội. Thanh gươm Hát bội nổi tiếng, bởi tác giả hiểu thấu tâm can, hiểu thấu tài năng đức độ nhân vật của mình. Đào Tấn, người bốn lần là quan Thượng thư, ba lần quan Tổng đốc nhưng dẫu vinh quang vậy,  ông vẫn được xem là “Kẻ ở ẩn tại triều”. Làm quan thì là chính khách mẫu mực, làm thơ, làm tuồng thì mang tầm vóc thiên tài. Hẳn tâm sự ông, bi kịch đời ông nhiều lắm những đoạn trường…Mịch Quang không có ý định cách tân nghệ thuật tuồng. Ông soạn tuồng hiện đại nhưng vẫn tôn trọng phong cách truyền thống và đó là một sáng tạo đầy khoa học.  Cuốn Búp sen xanh của nhà văn Sơn Tùng là một ví dụ.Búp sen xanh đã được nghệ sỹ – nhà nghiên cứu Mịch Quang đưa lên sân khấu tuồng với tên gọi Cậu bé làng Sen.

Nhà nghệ thuật học dân tộc ấy  đang tuổi 95. Không! Chỉ là 95 mùa xuân thôi, bởi hình như tuổi tác ấy chưa làm ông từ giã công việc bởi ông vẫn còn tiếp tục nghiên cứu và dâng hiến cho đời…Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong Viện Đại học Kent – Hoa Kỳ viết: “Tôi hết sức ấn tượng về ông ở nhiều nhận định và nghiên cứu đáng quý, ngoài cái phong cách sống đẹp và tri thức. Tôi tâm đắc cái “Cấu trúc động” mà ông đã phát hiện trong âm nhạc Việt Nam…. Tôi thấy ở ông toát lên một cái nhìn siêu đẳng về giá trị âm giai, âm hưởng âm bậc dân tộc dưới dạng phóng khoáng. Ông thấy cái hùng nằm ngay trong tự thân nhạc mình, không phải số lượng nhạc cụ trong một dàn nhạc mà ở cái chức năng chuyển hóa lòng người, và ông cho rằng, tuồng là một loại hùng ca…”

Vâng! Đắm mình trong đời sống nghệ thuật dân tộc, thiết tha với cuộc đời, với nghệ thuật truyền thống, Mịch Quang đã phát hiện cái vĩ đại trong cái đẹp cái hay của nghệ thuật Việt. Nguyên lý “Cấu trúc động – mở” của âm nhạc cổ truyền Việt của ông đã được các học giả nổi tiếng vận dụng trong giảng dạy nghiên cứu từ lâu.  Nhà soạn nhạc người Pháp Claude Debussy (1862 -1918) khi xem Hát Bội ở Hội chợ Hoàn vũ Paris năm 1889 đã cho rằng chỉ mỗi tiếng kèn cũng làm rung động lòng người, tiếng trống chầu cũng vẽ ra được một không gian sấm sét… Đúng là âm nhạc Việt qua tuồng có cái hồn riêng làm xúc động người xem và nhất là khi nó hài hòa với lời ca động tác sân khấu… Tác phẩm âm nhạc chỉ phát huy giá trị ở cái chất lượng của nó.  Và với Mịch Quang,  chỉ với một câu mộc mạc dân dã mà ông đã làm một tổng kết đặc sắc cho âm nhạc Việt, rằng “đàn thì phải nhấn nhá, hát thì phải luyến láy”. Giáo sư âm nhạc Trần Văn Khê kể rằng để mô tả cái đặc sắc của thanh nhạc và khí nhạc Việt Nam truyền thống, ông đã phải dài dòng phân tích lý giải, trong khi ấy lý luận của Mịch Quang ngắn gọn mà súc tích dễ hiểu quá chừng. NSND GS Trần Bảng có thể nói là người rất hiểu đóng góp và sự nghiệp của bạn mình khi ông cho rằng: “Âm nhạc, là trung tâm gió bão diễn ra trong suốt quá trình phát triển của lịch sử kịch hát dân tộc hiện đại. Mịch Quang là người chiến sĩ xung kích dũng cảm nhất, triệt để nhất chống lại sự tấn công của những xu hướng lai căng cho âm nhạc truyền thống bị tha hóa mai một đi. Hai tiếng “cực đoan” mà một số người gán cho anh nói lên tính ngoan cường, thái độ không khoan nhượng của anh trước những mưu toan phá hoại truyền thống. Mịch Quang bảo vệ truyền thống với một bản lãnh, một sự hiểu biết nghề nghiệp sâu sắc”.

Sáng nay tại căn nhà của người con gái ông ở Mỹ Đình, lúc tôi đến vẫn thấy ông cặm cụi  viết. Gần trăm tuồi mà trí tuệ ông vẫn minh mẫn quá chừng. Người vẫn còn đau đáu về cái “kho báu” nghệ thuật của cha ông mà chưa thể nào nghiên cứu hết, để bảo tồn phát huy cái cao siêu bác học trong cái dân dã cổ truyền. Ông bảo các giáo sư nước ngoài bất ngờ khi Việt Nam có nghệ thuật Opera trước thế kỷ 18. Opera Việt, không đâu xa đấy là kịch hát mà nghệ thuật của nó thâm trầm, ở đỉnh cao mà chưa thể nào ta hiếu hết.  Ông nói và nhiều lần dẫn các câu hát tuồng, nghe còn mùi mẫn lắm. Mịch Quang  có một tâm hồn nghệ sĩ bậc thầy và một tư duy bác học về nghệ thuật dân tộc. Ông bảo: “Tôi không có học hàm giáo sư bởi mải mê với nghiên cứu và đóng góp cho nghệ thuật mà không có điều kiện học hành lấy bằng cấp. Dù vậy, các giáo sư, học giả quốc tế tìm tôi để học hỏi. Công trình nghiên cứu âm nhạc Việt Nam: Cấu trúc động – mở  của tôi được đưa vào giáo trình Đại học ở Mỹ…”

Lặng lẽ giữa cuộc đời đầy biến động, Mịch Quang hầu như không màng danh lợi. Đó là cốt cách của một người làm khoa học chân chính. Nhưng cho đến giờ dù tác phẩm và công trình được trích giảng, nghiên cứu nhiều nơi trên thế giới, ông vẫn lặng lẽ đi về giữa Nam và Bắc, không danh vị, học hàm học vị, không danh hiệu… Nhưng tôi tin cống hiến của ông, đóng góp của ông cho nghệ thuật dân tộc sẽ còn mãi và lịch sử sẽ công bằng, dù mọi thứ danh hiệu với ông cũng phù vân nốt, như chính đời người giữa mênh mông biển đời…

 

Tân Linh