Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống (P1)
15/10/2020
Nhà xuất bản Sân khấu xuất bản năm 2000.
Tái bản năm 2007.
Được tặng Giải thưởng Nhà nước về VHNT năm 2001.
Giải Bạc giải Sách hay Giải thưởng sách Quốc gia năm 2008.
Các nhà bác học muốn làm gì thì làm họ vẫn bị triết học thống trị
F.Engeis
Đừng để những tiêu chuẩn này nọ của nghệ thuật phương Tây trói buộc khiến ta không thấy hết cái hay, cái đẹp của nghệ thuật dân tộc ta.
Hồ Chí Minh
Khí Đất bốc lên, khí Trời bay xuống. Âm Dương giao hòa. Vạn vật sinh ra do tiếng vang đột nhiên của Sấm Sét, thúc đẩy bởi Mưa Gió, vận hành theo Mặt Trời, Mặt Trăng. Âm nhạc mô phỏng sự hài hòa ấy giữa Trời và Đất
Nhạc Ký
MẤY LỜI BỘC BẠCH
Những năm 1960, trên miền Bắc XHCN, các ngành nghệ thuật dân tộc cổ truyền đang đứng trước con đường kế thừa tinh hoa dân tộc và tiếp thu tinh hoa thế giới. Mấy lần gặp anh em chúng tôi, nghệ nhân và cán bộ nghiên cứu, trong dịp Tết Nguyên đán, Bác Hồ kính yêu đã dặn:
“Đừng để những tiêu chuẩn này nọ của nghệ thuật phương Tây trói buộc khiến ta không thấy hết cái hay, cái đẹp của nghệ thuật dân tộc ta”.
“Tuồng Chèo là những vốn quý, nhưng cũng phải cải tiến chứ không nên dậm chân tại chỗ. Song chớ có gieo vừng ra ngô”.
Trước khi có lời dặn của Bác Hồ, trong từng bộ môn Tuồng, Chèo, Cải lương, luôn diễn ra cuộc tranh luận giữa hai khuynh hướng: cải tiến mất gốc và bảo vệ nguyên xi. Từ khi được lời dặn của Bác, anh em làm việc thận trọng hơn. Mặc dù vậy, không phải mọi việc đã dễ dàng trôi chảy. Đường lối của Đảng là kế thừa phát triển tinh hoa dân tộc, gạn lọc những hạn chế, cặn bã. Song, lấy tiêu chuẩn nào để xét, lăng kính nào để nhìn cho ra những tinh hoa, cặn bã? Lăng kính và tiêu chuẩn “hiện đại”. Về nội dung thì dễ, song về hình thức thì rất phức tạp. Vậy thế nào là hình thức hiện đại? Qua bao nhiêu cuộc hội thảo, trao đổi, tham luận, rốt cục tiêu chuẩn hiện đại có thoát khỏi được phương Tây tư bản chủ nghĩa, nhưng lại rơi vào Đông Âu xã hội chủ nghĩa. Không ít người cho thế là thỏa đáng rồi. Nếu ngành âm nhạc sẵn sàng rời bỏ truyền thống hò, xự, xang, í a í ư, lao theo truyền thống cổ điển châu âu kiểu Nga, thì ngành kịch hát dân tộc đang rất khó xử. Liên Xô, nước đứng đầu phe XHCN lúc ấy không hề có kịch hát, lấy gì mà theo? Không theo được toàn bộ vì không có, thì hãy theo nghệ thuật đạo diễn vậy! Thế là nhiều nghệ nhân, nhà nghiên cứu, tác giả Tuồng, Chèo, Cải lương…được học trực tiếp hoặc dự thính lớp đạo diễn theo hệ Xtanilapxki đầu tiên do nghệ sĩ nhân dân Liên Xô Vaxiliép dạy. Sau khi dự thính, đã có lão nghệ nhân tuồng muốn cho gần tới Xtanilapxki, đã phát biểu: “Từ xưa, diễn viên tuồng đã bắt buộc phải nhập vai từ trong cánh gà” (!). Ít lâu sau đạo diễn Liên Xô Mônakhốp sang dạy đã khẳng định: “Thế hệ Xtanilapxki không thể nào vận dụng vào sân khấu truyền thống các đồng chí được! May ra các đồng chí chỉ có thể tham khảo của nó một số yếu tố”. Thế thì, lấy đâu ra “tiêu chuẩn hiện đại” cho kịch hát dân tộc? Ngành Cải lương, thì tạm bằng lòng kiểu kịch nói pha ca có từ thời Năm Châu, Trần Hữu Trang, nhưng Tuồng, Chèo thì không chịu.
Đường lối văn nghệ của Đảng ta luôn có sửa đổi. Lúc đầu là “nội dung xã hội chủ nghĩa hình thức dân tộc”, sau thì “nội dung xã hội chủ nghĩa, tính chất dân tộc”. Đến bây giờ: “nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Khi đồng chí Tố Hữu, Trưởng ban văn hóa tư tưởng TƯ Đảng nêu phương châm “dân tộc, hiện đại”, thì mặc dù đồng chí Tố Hữu đã nói rõ là “Phải từ ta mà mới”, nhưng nhìn cách làm của các nhà cách tân trong thực tiễn, “hiện đại” vẫn chưa thoát khỏi hàm nghĩa là châu Âu, nếu không là phương Tây.
May sao tôi được đọc Ănghen: “Các nhà bác học muốn làm gì thì làm, họ vẫn bị triết học thống trị”. Tôi đề xuất: lấy tiêu chuẩn triết học trong nghệ thuật để xem xét nó hiện đại hay lạc hậu, triết học trong hình thức, trong cách diễn đạt, phản ánh, chứ không phải trong nội dung. Nếu triết học của nó là duy vật biện chứng thì hiện đại, nếu triết học của nó là siêu hình cơ giới, thì nó là lạc hậu, vì vấn đề hiện đại của cái đẹp vẫn mang tính dân tộc, tính giai cấp. Song, khá nhiều nhà hoạt động, quản lý, nghiên cứu có học ham học vị đã không đồng tình với tôi, vì cho rằng: “triết học chỉ có trong nội dung, không thể tồn tại trong hình thức”.
Thậm chí đã có một phó giáo sư, trong công trình bàn về “nội dung XHCN và tính chất dân tộc trong văn học” đã kết luận khá dễ dãi: Nền văn học ta mang nội dung XHCN và viết bằng Việt văn, thế là xong nội dung XHCN tính chất dân tộc rồi”! Nhưng tôi vẫn kiên trì suy nghĩ của mình. Và, nghịch lý thay những người ủng hộ và khuyến khích tôi lại là những nhà khoa học tự nhiên. Họ nói: “Cái máy cũng có triết học của nó”
Đúng như thế! Từ điển Triết học cũng đã nói rõ “phép siêu hình là cha đẻ của nền kỹ thuật cơ giới…”. Và tôi quyết đi tìm tư tưởng triết học đã chi phối những đặc trưng, đặc điểm của nghệ thuật truyền thống ta mà nếu nhìn bằng con mắt “hiện đại là phương Tây hoặc Đông Âu” nó sẽ là cổ lỗ. Đã có không ít nhạc sĩ nhìn theo con mắt ôpêra, ôpêrét, balê, phát biểu: hát của tuồng lả “thanh nhạc bán khai’, “múa Tuồng chưa đủ tiêu chuẩn múa”, và đặt vấn đề tuồng phải hát cộng minh theo “thanh nhạc hiện đại XHCN Liên Xô”, cải tiến múa tuồng theo hướng múa balê!! May sao, đã có vài thí nghiệm thất bại: một nghệ sĩ múa balê khá điêu luyện được mời diễn thử một “bộ cất bản” của tuồng đã không đứng nổi, và chuyên gia thanh nhạc Liên Xô Baritde khuyên không nên đưa cộng minh vào hát tuồng, chèo.
Tư tưởng triết học tạo ra những đặc trưng đặc điểm của nghệ thuật truyền thống ta từ xa xưa, chắc chắn là không ngoài Nho, Phật, Lão. Về Nho thì triết học chứa chủ yếu trong Kinh Dịch, và dấu vết Âm Dương, Ngũ hành, đã thấy rõ trong nghệ thuật tuồng. Giữa Kinh Dịch và Phật giáo thì tôi hiểu Phật giáo hơn vì đã có cơ hội tìm hiểu từ thời còn học sinh, trong khi chưa biết tí gì về Kinh Dịch. Song, tôi vẫn chủ trương đi vào Kinh Dịch trước, vì mấy lẽ :
Dấu ấn Kinh Dịch (Âm Dương) thấy rõ trong tuồng, chèo.
Kinh Dịch ra đời trước Phật giáo, có sự đóng góp của dân tộc Bách Việt cổ, trong đó có Lạc Việt ta. Kinh Dịch là cơ sở lý thuyết của Đông y, mà phương thức vận động làn điệu tuồng rất giống với phương thức phương thang Đông y.
Trong lời giới thiệu sách “Quốc Văn Chu Dịch diễn giải” của Phan Bội Châu, cụ Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng đã viết:
“Thuở nay nhiều người xem bộ Chu Dịch như một thứ sách nói về việc bói, đã không có ích cho đời mà lại dẫn người đời vào cõi mê tín. Nay có sách này, không khác gì dọn gai góc mà thấy đường bằng, vẹt mây mù mà thấy mặt trời…”.
“Hiện xã hội ta ngày nay, đối với Hán học có chiều lãnh đạm, mà nhất là triết học cao siêu thâm thuý như bản Chu Dịch này lại càng ít người muốn xem mà có lẽ cũng ít hiểu nữa…”
“Tuy vậy, ngọc ở trong đá, vàng ở dưới bùn, dầu có ít người thưởng thức đến, song cái giá trị quý báu của nó, không vì cái cớ che lấp ấy mà tiêu mòn, mà hai mươi triệu con Hồng cháu Lạc này, há lại không còn có người có cái ý tưởng đối với triết học phương Đông ta, mà có lòng muốn bảo tồn và phát triển hay sao?”
Tác giả sách, Cụ Phan Bội Châu lại cho biết :
“Gần đây Âu Châu triết học thịnh hành, mà học giả nước Đức là ông Uy-Lệ-Liên vào xứ Thanh Đảo nước Trung Hoa, mời thầy học Dịch, nghiên cứu hơn 20 năm, biến thành bản Đức Văn Chu Dịch đưa về trình Vua Đức, được Uy-liêm (Guillaume II) thưởng cho Bác sĩ học vị”.
“Bấy giờ nhà văn học Đại học nước Đức, lấy sách ấy làm một bản chuyên môn giáo khoa…”.
“Người Tây Phương quý trọng triết học Đông Phương đến như thế, cớ sao người nước ta sinh ở Đông Phương, lại dòng dõi con nhà Hán học, mà nỡ bỏ Dịch học chẳng ai nhắc tới ?”..
|
Gần đây tình hình một số bạn trẻ, tuy chưa nhiều, bắt đầu chú ý đến Kinh Dịch là điều đáng mừng. Cũng như khá nhiều bạn trẻ, nhà văn, nghệ sĩ, cũng đang tìm hiểu Phật giáo không phải để cầu Phật độ trì, mà là để tìm hiểu tư tưởng triết học của nó đã ảnh hưởng đến nền Văn hóa truyền thống dân tộc ta nên hư ra sao. Nhất là trong công cuộc chấn hưng văn hóa dân tộc hiện nay, việc tìm hiểu ý nghĩa triết học và khoa học của Kinh Dịch là hết sức cần thiết.
Những năm qua, trong công tác nghiên cứu Tuồng và Kịch hát dân tộc (trong đó có cả hát, nhạc, múa, kịch) một số anh em chúng tôi rất lúng túng, có khi gần như bế tắc, khi lấy tiêu chuẩn nghệ thuật Âu Châu mà chúng tôi cho là hiện đại, khoa học, để đánh giá, đổi mới nghệ thuật dân tộc ta. Đến khi đọc thấy câu của Ănghen về sự thống trị của triết học vào tất cả các lĩnh vực tôi mới chợt nghĩ ra về sự chi phối của triết học phương Đông, tư tưởng dân gian bác học ta, đến nghệ thuật truyền thống ta. Thời kỳ ấy công tác nghiên cứu triết học phương Đông ở ta còn rất sơ sài. Riêng tôi, tôi phải tìm sang Đông Y để xem sự chi phối của triết học đối với nó thế nào và xem tư tưởng triết học ấy lạc hậu hay tiến bộ. Riêng ở tuồng, tôi thấy dấu vết của nguyên lý Âm Dương, Ngũ hành của Kinh Dịch khá rõ. Tôi bèn tìm đến cố giáo sư Cao Xuân Huy, thầy dạy văn cũ của tôi thời Pháp thuộc ở Huế, lúc ấy là nhà triết học phương Đông rất có uy tín. Thầy đã nhận lời giảng cho một số anh em chúng tôi về Kinh Dịch. Lớp học chí có mấy người: tôi và các nhà nghiên cứu Hoàng Châu Ký, Hà Văn Cầu, Lê Ngọc Cầu, các nhạc sĩ Lê Yên, Tô Vũ lúc ấy đang công tác ở Ban nghiên cứu Tuồng và Ban nghiên cứu chèo. Thầy chỉ giảng riêng phần triết học và khoa học Kinh Dịch, gác lại phần dự đoán học (ta quen gọi là “bói toán”) chưa cần thiết.
Tất nhiên, triết học phương Đông không phải chỉ có Dịch học mà còn Phật học, Lão học, Khổng học… song, nếu Phật học, Lão học có thể tự đọc mà hiểu thì Dịch học rất khó có thể tự đọc mà hiểu. Trước khi nghe thầy Cao Xuân Huy giảng, tôi đã thử đọc “Kinh Dịch” (Ngô Tất Tố), “Chu Dịch bản nghĩa” (Phan Bội châu) nhưng không hiểu nổi.
Nhờ bài giảng của thầy Cao Xuân Huy, tôi tự liên hệ đến Phật học mà tôi đã có nghiên cứu thời Pháp thuộc, tìm đọc thêm, liên hệ đến những khoa học hiện đại, điều khiển học, sinh học, và triết học duy vật biện chứng mà tôi vừa được học sau năm 1954. Từ đó, tôi bắt đầu hiểu được nguyên nhân triết học và khoa học của nền nghệ thuật truyền thống ta trong đó có kịch hát dân tộc, và tôi đã tự xác định cho mình niềm tự hào chính đáng không chút mặc cảm tự tôn hay tự ti về tinh hoa của nghệ thuật truyền thống dân tộc ta mà tôi đã gọi là “Mỗi bên mỗi vẻ mười phân vẹn mười” so với tinh hoa nghệ thuật phương Tây. Tuy nhiên, chỗ “mười phân vẹn mười” của âm nhạc truyền thống đang bị điên đảo trong cuộc cải tiến. Chúng ta cải tiến nền âm nhạc dân tộc XHCN bằng việc bổ sung cho nó nền âm nhạc mới, tiếp thu từ châu Âu, từ nền văn minh da trắng, cho nó song song phát huy tác dụng với nền âm nhạc cổ truyền, tiếp thu kịch nói bổ sung cho kịch hát truyền thống trong nền sân khấu dân tộc XHCN. Theo đường lối của Đảng: phát huy vốn cổ dân tộc và tiếp thu tinh hoa, là đúng. Nhưng tại sao lại lấy lý thuyết, tức là tiêu chuẩn của nền nghệ thuật phương Tây để “sửa sai” thực tiễn nghệ thuật truyền thống, dẹp bỏ khá nhiều tinh hoa của vốn cổ dân tộc chỉ vì nó không phù hợp với lý thuyết phương Tây?
Sau 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất, tôi đang phụ trách bài mục “Loại hình kịch hát dân tộc” trong khoa Văn hóa quần chúng của trường Lý luận và nghiệp vụ của Bộ Văn hóa (nay là Đại học Văn hóa) thì được điều động về Nam. Sau một thời gian ổn định công tác tôi tìm ngay một số công trình nghiên cứu Kinh Dịch của các học giả miền Nam. Tôi đã bắt gặp trong sách “Kinh Dịch và vũ trụ quan phương Đông” của Nguyễn Hữu Lương một thông tin quan trọng. Tác giả cho biết: Trong hội nghị triết học thế giới họp tại Băng Đung năm 1955 các nhà triết học phương Tây đã tuyên bố cáo chung sứ mệnh của triết học phương Tây trước tình hình thế giới đương đại và vận động một cuộc di cư về phương Đông mà họ cho là cái nôi của triết học nhân loại. Sau cuộc di cư ấy các nhà triết học tiến bộ phương Tây có những thay đổi :
– Chấp nhận biến dịch thay cho bản thể im lìm cũ
– Chấp nhận cơ thể thay cho cơ khí cũ
– Chấp nhận nhất nguyên lưỡng cực thay cho nhị nguyên cũ
Hóa ra những cái mà triết gia phương Tây tiếp thu của phương Đông toàn là những cái đã có trong Kinh Dịch, Lão giáo, Phật giáo. Thông tin ấy giúp tôi củng cố thêm lòng tin rằng sự chi phối của triết học phương Đông vào nghệ thuật truyền thống ta tuy rất xưa cũ, nhưng lại mới hơn triết học phương Tây.
Một hôm tình cờ tôi đọc trên báo Thanh niên một tin: Một nữ tiến sĩ tâm lý học người Ý, khi còn là sinh viên, cô ta là một “cây” múa balê. Tốt nghiệp xong cô sang Ấn Độ, thử tìm hiểu múa Ấn Độ. Cô không cưỡi ngựa xem hoa mà muốn hiểu bằng cách học thực sự. Cô tìm đến một nghệ nhân nổi tiếng. Trước khi dạy múa, nghệ nhân buộc cô phải học và hiểu triết học Ấn Độ. Trong quá trình học, cô dần dần nhận thấy rằng múa balê thiên về kỹ xảo cơ thể, tập luyện những động tác ngoại hình công phu, khó, đẹp, nhưng các động tác ấy không tác động gì đến tâm lý người múa cả, ngược lại, múa Ấn Độ không khó khăn, phức tạp như balê, nhưng mỗi động tác lại tác động đến tâm lý một cách hữu cơ. Cô ra sức học hành thành tài, về nước cô bỏ cả nghề tâm lý học, bỏ cả múa balê, trở thành nghệ sĩ độc diễn múa Ấn Độ. Đọc câu chuyện ấy, tôi chợt nhớ đến nguyên tắc đầu tiên của múa dân tộc: “Nội – Ngoại tương quan”. Từ đó, tôi càng tin rằng định hướng đi tìm nguồn triết học để hiểu đến nơi đến chốn nghệ thuật dân tộc, thoát khỏi sự trói buộc của tiêu chuẩn phương Tây là đúng, và tôi thiết nghĩ rằng: Muốn xây dựng lý thuyết có hệ thống cho nền nghệ thuật truyền thống đậm đặc bản sắc dân tộc, theo tôi, phải tuân thủ các điều kiện :
- Phải am hiểu sâu, phải có vốn cơ bản về thực tiễn, bằng cách tạm quên thực tiễn và lý thuyết phương Tây nếu đã có học và hành.
- Phải có phương pháp luận duy vật biện chứng, phải bắt đầu từ cái tổng thể chứ không phải từ bộ phận, phải thấy mối liên hệ giữa nghệ thuật với tổng thể phôncờlo, vì nền nghệ thuật truyền thống ta vốn là nghệ thuật dân gian.
- Phải am hiểu nền triết học đã chi phối thực tiễn ấy, nền triết học phương Đông và bộ phận lưu truyền ở Việt Nam từ xưa.
Vì nghĩ như thế nên tôi đi tìm học Kinh Dịch sau khi đã lướt qua về Phật giáo, Lão giáo. Tôi chỉ cố ý tìm ý nghĩa triết học và khoa học của nó, nhằm rọi sáng mấy vấn đề liên quan đến nghệ thuật:
– Vũ trụ quan
– Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, giữa chủ thể và khách thể.
– Quan niệm về thời gian và không gian.
– Quan niệm về vận động hài hòa vũ trụ.
– Về cấu trúc hệ thống vũ trụ, nhằm liên hệ đến cấu trúc hệ thống trong tác phẩm nghệ thuật.
Song có một thực tế rất đáng lưu ý: trong “Đặc trưng nghệ thuật tuồng”, khi bàn về nghệ thuật hát, xướng thì nó khác Chèo rất rõ, nhưng khi tổng kết lên tầng phương pháp thì Tuồng, Chèo giống nhau. Ở đây, xin các bạn chớ ngạc nhiên khi thấy tôi tìm ra được những nguyên lý soi sáng các đặc trưng đặc điểm nghệ thuật truyền thống ta thì bỗng nhiên, những nguyên lý ấy lại có thể soi sáng cả đặc trưng đặc điểm nghệ thuật truyền thống nhiều dân tộc Châu Á, (thuộc hệ tư tưởng và vũ trụ quan bác học Kinh Dịch, Phật giáo) mặc dù tôi không có ý định làm việc ấy. Không hiểu có bạn nào nghĩ: Như thế thì có gì rõ bản sắc dân tộc trong nghệ thuật! Có lẽ không. Vì chắc chúng ta đều biết rằng cái độc đáo dân tộc không bao giờ biểu hiện ở “lý thuyết xám xịt” mà là ở hành động cụ thể, ở hình tượng, ở “những cây đời xanh tươi’.
Nói về cây trái, ta đã thấy rất rõ là môi trường sinh thái, khí hậu thổ nhưỡng đã tạo ra những cây trái cùng chủng loại nhưng hương vị khác nhau. Nghệ thuật cũng thế. Kinh Dịch là một “ Kim cổ kỳ thư” (nghĩa là: pho sách lạ nhất xưa nay), nội dung của nó chứa đựng rất nhiều lĩnh vực. Trong công trình này, tôi chỉ nhằm, và cũng chỉ có khả năng, lôi ra từ nó những cái dính dáng đến nghệ thuật. Rất mong bạn đọc không chờ đợi ở đây những vấn đề ngoài mục tiêu công trình đồng thời cũng ngoài tầm tay với của tôi*
Tác giả
|
PHẦN I
TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC KINH DỊCH
NGUỒN GỐC LỊCH SỬ KINH DỊCH
TỪ DÂN GIAN ĐẾN BÁC HỌC
Sử sách cũ đều lưu truyền là Kinh Dịch là do Không Tử biên soạn, đồng thời sách cũ cũng đã lưu truyền câu nói của Không Tử lúc cuối đời :
“Gia ngã sổ niên tốt dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá hĩ” (nghĩa là: “Cho ta sống thêm mấy năm nữa, học cho hết dịch lý, có thể không có sai lầm lớn chăng!”).
Để cắt nghĩa “nghịch lý” ấy, sách cũ cũng đã nhắc lại câu của Khổng Tử nói về các kinh sách của ông là “Thuật nhi bất tác” (nghĩa là tất cả các Kinh sách của Khổng Tử đều là sách biên soạn, thuật lại, chứ không sáng tác).
Thầy Cao Xuân Huy đã cho chúng tôi biết :
Theo các nhà văn bản học Trung Quốc cũ thì Kinh Dịch không phải của Khổng Tử. Nguyên nhân là: trong thời kỳ “Bách gia tranh minh” (các nhà hiền triết tranh luận với nhau) phái Khổng Tử có phần bị lúng túng trước một số phái khác do không có vũ trụ luận (nền tảng cơ bản của Khổng giáo, chủ yếu là đạo đức luân lý mang ý nghĩa thực dụng; chính vì thế mà Lão Tử đã nói với Khổng Tử, chê đạo Khổng là “kiêu căng, dâm sắc và đa dục”. Và Không Tử đã nói với học trò mình : “Ta xem Lão Tử như con rồng”(l)). Trước tình hình ấy, Khổng tử đã sai các môn đồ đi về vùng Phương Nam sưu tầm các tư liệu của các đạo sĩ dân gian thuộc phái Lão về soạn lại thành Kinh Dịch.
Cũng theo thầy Cao Xuân Huy :
Kinh Dịch vốn không có trong ngũ kinh : Kinh thư, Kinh thi, Kinh lễ, Kinh nhạc, Kinh Xuân Thu, sau khi đưa Kinh Dịch vào thành ra Lục Kinh. Nhưng về sau Kinh nhạc bị thất lạc nên Kinh Dịch được ghép vào Ngũ kinh và trở thành một trong những bộ kinh chính thống của Nho giáo, chuyên về vũ trụ luận.
Như thế, Kinh Dịch gốc ở “Phương Nam Trung Quốc cổ đại”, vậy Phương Nam Trung Quốc cổ đại là vùng nào?
Vấn đề này, thầy Cao Xuân Huy không đề cập đền, thầy chỉ đoán rằng Phương Nam là vùng ảnh hưởng của Lão Tử, Bách Việt và cho thấy tư tưởng Kinh Dịch rất gần tư tưởng Lão Tử. Nguyễn Hữu Lương trong “Kinh Dịch và vũ trụ quan Đông Phương”(2) cho biết Lão Tử là người Kinh Việt, là “Ông tổ triết học của dân tộc Bách Việt”, Kim Định trong “Việt lý Tố nguyên”(3), có cung cấp một tư liệu trong “Trung Quốc Thông Sử” của Chu Cốc Thành: Viêm tộc đã có mặt ở khắp nước Trung Hoa cổ đại trước khi các dân tộc khác tràn vào
|
nên Viêm tộc được là người chủ đầu tiên”. Đại Việt sử ký của ta phần “Ngoại kỳ”, cũng ghi Thần Nông là vua Viêm Bang sinh ra Kinh Dương Vương… Đặc biệt trong một phát hiện mới nhất, giáo sư nhân chủng học trường Đại học Hawai, ông Wilhem G. Solhem II đã viết :
“..Sự thuần hóa cây trồng sớm nhất trên thế giới đã được làm do giống dân thuộc nền văn hóa Hòa Bình, một miền đất ở Đông Nam Á… Tôi cũng không ngạc nhiên tí nào nếu điều này đã bắt đầu rất sớm, khoảng 15.000 năm trước Công Nguyên”…
“Từ trước tới nay, cách tạo dựng lại thời tiền sử vùng Đông Nam Á đều cho rằng sự di dân từ miền Bắc xuống đã đem tới vùng Đông Nam Á sự phát triển kỹ thuật. Nhưng tôi lại nghĩ khác: nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới (tức cuối thời đồ đá ở Miền Bắc Trung Hoa) đã phát triển như một nhánh của nền văn hóa Hòa Bình”.
|
Tôi thấy phát hiện của Giáo sư Wilhem có chỗ trùng hợp với “Trung Quốc thông sử”; người dân vùng văn hóa Hòa Bình thời ấy chắc là Viêm tộc, họ là người chủ đầu tiên của đất Trung Hoa với các vị vua Phục Hy, Thần Nông. . . Hai trong ba vị tố của Kinh Dịch – Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế – hai vị vua đầu là có thật chứ không phải huyền thoại, là người Viêm tộc. Chỉ Hoàng Đế là người Hoa tộc. Đồng thời, đó cũng là ba vị tổ của Đông y. Kim Định cũng cho biết Hà Đồ, Lạc thư trong Kinh Dịch là của người Lạc Việt. Nhà khảo cổ học Trung Hoa Tiễn Bá Táng đã công bố tư liệu ấy.
Như thế, tôi thấy rằng Kinh Dịch có nguồn gốc Bách Việt Viêm Hoa. Tuy nhiên, phải thừa nhận công phu sưu tầm, giải mã, chú thích của Không Tử và môn đồ là rất lớn. Chính nhờ công phu sưu tầm biên soạn ấy mà từ những tu liệu của các đạo sĩ dân gian, Kinh Dịch đã trở thành một bộ sách mà các học giả phương Tây đã phải thừa nhận là bộ sách kỳ lạ nhất thế giới. Và từ khi Kinh Dịch đứng hẳn vào Ngũ Kinh, thì nó có tác dụng rất to lớn đối với thế giới quan Nho Giáo, nhất là Nho Giáo Việt Nam ta. Xin giới thiệu sau đây những lời Tự Đức luận về “Trời”:
“Xem sự chuyển biến của bốn mùa, xem sự sinh dục của muôn vật, thì thấy hình như có một cái gì điều khiển sự sinh dục, sự chuyển biến ấy, hình như có cái gì chủ trương, cái đó gọi là Trời…”.
“Trời chỉ là khí thanh (trong) mà thôi, thế mà muôn người phải đội và thờ. Sinh sinh hóa hóa là lý tất nhiên, không thể coi là mông mênh không bờ bến, cho nên phải quy cho cái lý ấy là “Trời”. Vậy Trời cũng chẳng qua là “Lý, Khí mà thôi”.
“Đạo là một Âm một Dương thay nhau vần chuyển, nối vào đó là thiện, thành cái đó là tính. Đó là nói về đạo chân chính thì như thế. Song người ta lại cắt nghĩa rằng Âm Dương thay nhau chuyển vần, đó là khí. Cái lý của nó là đạo, lý chỉ có một mà thôi, nhưng trong đó những cái biểu hiện thành hình, thì gọi là khí, cái không có hình gọi là đạo. Song đạo mà không có khí thì không biểu hiện vào đâu được, khí mà không có đạo thì không đứng vững được. Là bởi vì Âm Dương cũng chỉ là khí, sở dĩ làm sao thành Âm Dương mới là đạo”
Ta thấy rất rõ Tự Đức cũng đã chịu ảnh hưởng Kinh Dịch, một vũ trụ luận vô thần. Cho nên, khi nói ảnh hưởng của Nho giáo đến nền văn hóa dân tộc ta thì cần thấy cái ảnh hưởng cơ bản tích cực nhất là Kinh Dịch mà Nho giáo đã ghép vào Ngũ kinh, chứ không phải luân lý học của Khổng Tử. Vậy, Kinh Dịch không phải là pho sách thuần tuý của người Trung Hoa như hầu hết các sách về Kinh Dịch ở ta và cả Trung Quốc, phương Tây, khẳng định. Thầy Cao Xuân Huy giảng rằng :
“Kinh Dịch không phải của Khổng Tử đã đành, cũng không phải của một vài vị Thánh nhân mà là công trình sưu tầm, chú thích, giải nghĩa, bình giải… của nhiều người, trải qua nhiều triều đại, ngày càng phong phú, đầy đủ hơn”.
Trong thế kỷ XX này, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu Trung Quốc, phương Tây, Việt Nam ta trên những bước tiến mới của tri thức nhân loại, lại đọc được thêm những ý nghĩa mới chứa trong các ký hiệu Kinh Dịch mà các nhà Dịch học Trung Quốc xưa chưa đọc ra được. Sự kiện điển hình ở thế kỷ XIX là Lépních, nhà bác học Đức, đã nghiên cứu Kinh Dịch phát hiện ra cơ số 2 mà vạch Dương (-) là số 1, vạch Âm (-.-) là số 0, và đề ra “cơ số 2″ hiện đại, ứng dụng vào toán máy tính điện tử (1) (Tôi còn nhớ mãi, khi học xong bài cơ bản về Kinh Dịch, tôi có hỏi thầy Cao Xuân Huy: Kinh Dịch có nói gì về âm nhạc không vì tôi thấy “Nhạc ký” của Trung Quốc có đề cập sự tương hợp giữa mô hình vũ trụ và âm nhạc. Thầy bảo, Thiên (chương) “Ngũ âm lục luật” có nói khá kỹ và thầy đã giảng thêm cho chúng tôi một buổi có các nhạc sĩ Lê Yên, Tô Vũ tham dự. Những khốn thay, tất cả không ai hiểu nổi bài giảng, vì toàn là lý thuyết toán học cao cấp ứng dụng vào nhạc, trong khi chúng tôi chỉ có trình độ toán học sơ cấp!
Gần đây giáo sư Nguyễn Hoàng Phương lại phát hiện thêm ý nghĩa “tập mờ” trong lý thuyết và toán học Kinh Dịch.
|
Với nguồn gốc Bách Việt Viêm Hoa, tôi ước mong
chúng ta, con cháu Viêm tộc, cũng sẽ góp được nhiều trong sự nghiệp kế thừa phát triển Kinh Dịch như những đóng góp của các học giả Trung Hoa xưa. Trong công cuộc ấy, tôi thấy có thể nói Hải Thượng Lãn Ông như một người tiên phong phát triển Y – Dịch trong Đông y, xây dựng nên nền Đông y học Việt Nam. Giới Y học dân tộc ta xem Hải Thượng như nhà Y Dịch học siêu việt nhất.
Đặc biệt, giữa Kinh Dịch và tư tưởng dân gian ta, trong tục ngữ ca dao, chỉ một câu: “Thiên – Nhân hợp nhất” của Kinh Dịch mà ta có tương ứng những câu tục ngữ :
– Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.
– Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.
– Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.
– Ăn mía ngọn dài tóc, ăn mía gốc chốc đầu….
Một câu: “Vật cực tắc phản” của Kinh Dịch ta có bao nhiêu câu ca dao tương ứng:
– “Càng thắm thì lại càng phai…”
“Thoang thoảng hoa nhài mới được thơm lâu “
- “Ăn lắm thì hết món ngon
“Nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ…”
Tìm hiểu sự chi phối của Kinh Dịch vào nghệ thuật truyền thống ta, không phải là tìm hiểu sự chi phối của tư tưởng Trung Quốc như nhiều người nghĩ (vì cho rằng Kinh Dịch là tuyệt đối của Trung Quốc) mà chính là tìm hiểu sự chi phối của một nền triết học và khoa học của phương Đông, trong đó có sự đóng góp của tổ tiên Viêm tộc ta.
NGÔN NGỮ KINH DỊCH
Tôi cũng như khá nhiều anh em Tây học, đọc Kinh Dịch không hiểu được (kể cả bản Quốc Văn Chu Dịch diễn giải của Phan bội Châu), nhất là về những nguyên lý cơ bản của nó như “Thái cực”, “Bát quái”, “âm Dương”, “Ngũ Hành”… Nguyên nhân chỉ vì chúng ta quá quen với kiểu ngôn ngữ lý thuyết trừu tượng của phương Tây, trong khi ngôn ngữ lý thuyết phương Đông nói chung và Kinh Dịch nói riêng, thầy Cao Xuân Huy cho biết, là ngôn ngữ lý thuyết “cụ tượng”. Hiện nay các nhà nghiên cứu Trung Quốc, cùng đã xác nhận đặc trưng ấy, nghĩa là: Nó dùng những hình tượng cụ thể, những ký hiệu quy ước để nói lý thuyết. Điểm đặc trưng đầu tiên của Kinh Dịch là Tượng và Số. “Tượng” là các vạch Âm vạch Dương được gọi là “Hào”. “Số” là những con số được ghi dưới dạng những chấm tròn; và ngay đến cả những từ ngữ mà ta tưởng là khái niệm thật sự cũng phải được hiểu theo ngôn ngữ cụ tượng. Như chữ đạo chẳng hạn, không ít anh em nhầm Đạo là đạo đức luân lý: Đạo nghĩa đen là “Con đường” nghĩa bóng là quy luật ; “đạo trời đất” nghĩa là quy luật vũ trụ; và “đạo thường” cũng không nên hiểu nghĩa “thường” là thông thường, bình thường, mà là “thường hữu”, tức là vĩnh cửu, “đạo thường” nghĩa là quy luật vĩnh cửu.
Lão Tử nói : “Đạo khả đạo phi thường đạo”.
Nếu hiểu là “đạo mà có thể đạo là đạo phi thường” thì sẽ không có nghĩa gì cả, lại có vẻ huyền bí, mà nên hiểu là “Cái quy luật mà đã gọi tên được (nghĩa là đã thành cái hữu hình, cụ thể) thì không phải là quy luật vĩnh cửu”. Như thế, Lão Tử nói theo cách nói của ông và Á Đông ngày xưa : “Quy luật vĩnh cửu là cái trừu tượng”. Cũng như thế. Kinh Dịch nói :
“Nhất Âm nhất Dương chi vị đạo”
Thì nên hiểu là “Một Âm một Dương là quy luật”. Ngay trong nguồn gốc thì chữ “Dịch” có con “tích dịch”, con thằn lằn đổi màu, cũng nói lên kiểu tư duy và ngôn ngữ cụ tượng ấy.
Theo tôi, nguồn gốc của tư duy và ngôn ngữ cụ tượng ấy có lẽ là từ dân gian nhiều hơn, vì như đã giới thiệu, Kinh Dịch đã lấy nguồn từ các tư liệu của các đạo sĩ dân gian phương Nam, và ta thấy dân gian ta cũng có cách nói như thế.
“Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”
(nghĩa là : Phải thích ứng nhạy bén với môi trường, hoàn cảnh)
“Càng thắm thì lại càng phai
Thoang thoảng hoa nhài mới được thơm lâu”
(nghĩa là: “Mọi cái quá đáng đều dẫn đến sụp đổ, biết vừa phải thì được vững bền). Và khi dân gian ta nói “Trời tròn đất vuông” thì chớ nên hiểu nhầm là trời hình tròn đất hình vuông, và phải hiểu là: “Trời động, đất tĩnh”. Vuông, tròn ở đây không phải mặt phẳng, mà là khối, khối tròn luôn luôn lăn nên được dùng biểu tượng cho động, khối vuông đặt đâu im đấy, nên dùng để biểu tượng cho tĩnh. Một số người không nắm được ý nghĩa “cụ tượng ngụ ngôn” ấy đã cho là dân gian ta xưa “quá lẩm cẩm” cho “Trời hình tròn, đất hình vuông”. Tục ngữ ta mang ý nghĩa rất rộng, với nhiều ngụ ý khác nhau. Ví dụ, câu “Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”, có thể hiểu ý :
- Đi với bụt thì được mặc nhờ áo cà sa (vì bụt có áo cà sa), còn đi với ma thì chỉ được mặc áo giấy (vì ma được người ta cúng áo giấy) nghĩa là phải chịu sự chi phối của hoàn cảnh.
- Đi với bụt nên mặc áo cà sa, đi với ma chỉ nên mặc áo giấy phải ứng xử nhạy bén với hoàn cảnh, đối tượng.
Chính do đặc trưng ngôn ngữ ấy mà các nho gia xưa đều nói đến ý nghĩa uyên thâm của Kinh Dịch, khó có thể hiểu cho thật đến nơi đến chốn. Có lẽ do đặc trưng ấy mà nhiều nhà khoa học phương Tây, kể cả Einstein đã cho là phương Đông xưa không có khoa học, vì không thấy nó có lý thuyết trừu tượng. Một nhà khoa học phương Tây đã viết :
“A. Einstein một hôm đã lưu ý rằng không có gì khó hiểu tại sao cả Trung Quốc lẫn Ấn Độ đã không sáng tạo ra khoa học”, và chính Einstein đã viết:
“Trên nền tảng bước tiến của khoa học phương Tây với hai thành quả lớn, sự phát minh ra logic hình thức (trong hình học Ơcơlít) do các nhà triết học Ai Cập, và sự khám phá ra liên hệ nhân quả bằng thực nghiệm hệ thống (thời Phục Hưng) theo ý tôi, không nên ngạc nhiên vì sao các nhà hiền triết Trung Hoa đã không bước qua giai đoạn ấy…”.
J.Needham’s, nhà Đông Phương học có uy tín, đã không đồng tình với nhận xét ấy mà tư tưởng chủ đạo là “Khoa học chỉ sinh ra ở phương Tây và chỉ có ở phương Tây thôi!”, ông viết : “Khoa học là một công việc có nhiều dạng vẻ khác nhau hơn lý thuyết hình học. Và trước tiên, thật là sai lầm khi nói rằng: Học thuyết về một trật tự trừu tượng, ổn định và vĩnh cửu, các luật lệ có thể lý giải sự điều hòa những biến đổi của vũ trụ, chỉ là một phát minh thuần tuý Ai Cập. Theo người Trung Hoa thời cổ đại, trật tự của tự nhiên ấy chính là “đạo”, hơn nữa là “thường đạo”, tức là con đường đi không thay đổi. Mỗi hiện tượng tự nhiên, theo Kinh Dịch (thế kỷ IV trước Dương lịch) đều tạo ra Âm và Dương, đều có hình thành và vận động quan hệ với các sự vật khác trong hệ thống các mối liên lạc giữa giới tự nhiên”.
Vào thế kỷ XI, Chao – Yong đã viết: “Quan sát sự vật theo quan điểm của sự vật, các anh sẽ phát hiện ra bản chất đích thực của chúng. Quan sát sự vật theo quan điểm của anh và anh chỉ phát hiện ra chính tình cảm của anh. Bởi vì tự nhiên vốn vô tư và trong sáng, trong khi tình cảm của anh thì thiên lệch và đen tối”.
“… Và chắc chắn rằng, sự quan sát tỉ mỉ, chính xác và kiên trì là một trong những viên đá thử vàng của lâu đài khoa học”.
Trong công trình nghiên cứu của ông, J. Needham’s đã khẳng định một cách dứt khoát rằng truyền thống khoa học Trung Quốc chủ yếu là đại số học, không bao giờ mang tính chất hình học. Tôi thấy nhận xét của ông đã tiếp cận được tính chất “cụ tượng”, “tập mờ” của tư duy Kinh Dịch. Phan Sào Nam (Phan Bội Châu) trong “Quốc Văn Chu Dịch diễn giải” cũng đã viết :
“Nghĩa chữ “tượng” trong Dịch học như thế nào? Nguyên lý của vũ trụ là một giống vô hình, không thể mô tả được mà dẫu mô tả được cũng chẳng bao giờ cùng. Muốn biểu thị chân lý, tất nhiên phải mượn những giống hữu hình mà chỉ diễn cho ra tượng nào vào lý ấy”.
“Nếu học Dịch mà coi câu nệ vào tượng mà chẳng nghiên cứu đến tinh thần, thời cũng chẳng phải là nhà tinh thông Dịch học”(l).
|
Một học giả Pháp nói về cách đọc Lão Tử: “Điều quan trọng không phải là cái ông ấy nói, mà là cái ông ấy gợi cho ta”(2).
Quan điểm ấy của học giả Pháp, hoàn toàn có thể áp dụng đối với việc đọc Kinh Dịch.
Xin lấy ví dụ Bát quái – Bát là tám, quái là quẻ (1), tên gọi một hình thức tượng – Tám “quái” lâu nay đã quen nghe gọi là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, không phải là những phù phép gì huyền bí của phù thủy, thầy bói, mà là tám hiện tượng tự nhiên: Càn là trời, Khôn là đất, Cấn là núi, Chấn là sấm sét. Tốn là gió. Khảm là nước, Ly là lửa, Đoài là ao hồ. Mỗi quái lại được biểu tượng bằng ba vạch, vận dụng hai hào cơ bản là vạch Dương (-) và vạch Âm (- -) phải được đọc từ dưới lên. Ở đây ta thấy có “tượng đơn nguyên” (hào) vạch Âm, vạch Dương và “tượng tổng hợp (ba vạch quái) ba vạch”. Như chúng ta đã biết, vạch dưới là Địa (đất), vạch giữa là Nhân (người), vạch trên cùng là Thiên (trời). Đến đây ta thấy có điều hơi khó hiểu: Tại sao tượng của Càn là Trời lại gồm cả “Đất – Người – Trời”? Điều ấy lâu nay được hiểu như sau: Vì trong Kinh Dịch, Trời không phải là cái bao trùm vũ trụ, không phải là cái ông Trời của dân gian, mà cũng không phải là Chúa – Thượng đế của tôn giáo. Trời chỉ là một trong những thành phần cơ bản bậc nhất của vũ trụ bao gồm: Trời, đất và con người. Phải đọc từ dưới đọc lên là do hai ngụ ý :
- Thông thường đứng dưới đất nhìn lên trời, chứ không thể đứng trên trời nhìn xuống đất.
|
- Từ đất nhìn lên trời thì vô cùng, từ trời nhìn xuống đất thì tận cùng, mà tư tưởng của Dịch học là “vô cùng”. Vạch giữa tượng trưng “Người” ngụ ý “con người là trung tâm của vũ trụ”. Đồng thời sự biểu tượng mỗi quái, mỗi hiện tượng tự nhiên bằng ba vạch “Địa – Nhân – Thiên”, quen gọi là “Tam tài thiên địa nhân”, còn một ngụ ý rất quan trọng mà Đông y đã rút thành nguyên lý cơ bản “Thiên nhân hợp nhất” (con người và vũ trụ là một khối thống nhất), “Nhân thân tiểu thiên địa” (Cơ thể người là vũ trụ thu nhỏ). Trong ngụ ý xưa ấy, tôi thấy có thể rút ra ngụ ý mới : “Con người và môi trường sinh thái, Khách thể (thiên địa) và chủ thể (nhân), là một khối thống nhất”.
Đến các “quẻ kép” gồm 6 vạch thì ngụ ý này rõ thêm là: Trong chủ thể có khách thể (nội quái) trong khách thể có chủ thể (ngoại quái), mà tôi thấy dấu ấn rất rõ của nó trong văn hóa nghệ thuật cổ truyền ta chứ không riêng gì Đông y.
“Tam tài” có chứa một ngụ ý khác nữa, đó là: “Thiên – Địa – Nhân tương hợp” (trời đất người đều chung một quy luật). Có người nghiên cứu Kinh Dịch đã đồng nhất ý nghĩa của “Thiên nhân hợp nhất” với “Thiên nhân tương hợp”. Riêng tôi, tôi thấy cần nắm được cả hai ngụ ý ấy. Ý nghĩa “Thiên nhân hợp nhất”, “Nhân thân tiểu thiên địa” đề cập đến mối quan hệ trao đổi giữa sinh vật và môi trường, còn “Thiên nhân tương hợp” đề cập đến sự giống nhau giữa quy luật vũ trụ và quy luật nhân sinh; và các quy cách quan hệ xã hội, sinh lý cơ thể vào quy luật tự nhiên, xây dựng một nhân sinh quan thống nhất với vũ trụ quan mà chúng ta sẽ bàn kỹ trong các phần sau, cũng như tiếp tục “giải mã” thêm những nội dung khác của “Ngôn ngữ Kinh Dịch”. Nhà Dịch học Trung Quốc Trình Di nói: “Tìm hiểu Kinh Dịch không nên chấp tượng, số hay từ, mà cái chủ yếu là ý nghĩa chứa trong các tượng, số, từ ấy”. Tôi cũng đã cố gắng học và giải mã Kinh Dịch theo hướng ấy. Mặt khác do tính chất “tập hợp mờ” cho nên ý nghĩa Kinh Dịch rất rộng, mà khả năng tôi không thể nào “giải mã” hết được. Và điều căn bản nhất ta cần nhớ nghĩa chữ Dịch. “Dịch” nghĩa là: Giản dị mà biến hóa.
Thầy Cao Xuân Huy nói : “Kinh Dịch là bộ sách nói về cái lẽ rất giản dị mà biến hóa của vũ trụ và con người”, giản dị mà biến hóa như thế nào?
PHƯƠNG VỊ TÁM QUÁI CỦA PHỤC HY
BIỆN CHỨNG KINH DỊCH
Theo thầy Cao Xuân Huy, Kinh Dịch mang dấu ấn biện chứng của Lão Tử. Tư tưởng Kinh Dịch phát triển ngày càng phong phú và ra đời sau Đạo đức kinh của Lão Tử. Xin trích dẫn một số câu:
“ Mọi sự vật trong vũ trụ đều động, biến hóa, do Càn Khôn giao cảm sinh ra vạn vật”
“Cương (cứng) nhu (mềm) cọ xát nhau
Bát quái sóng sánh
Sấm sét vang động
Mặt trăng, mặt trời vận hành, gió mưa thuận hòa,
Nóng lạnh vận hành
Cương nhu xô đẩy nhau sinh biến hóa”
“Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu(1)
“Đóng cửa lại là Càn, mở cửa ra là Khôn”(2).
|
“Một đóng một mở là biến”
“Qua lại không cùng là thông”
“Đạo trời đất hằng thường vĩnh cửu.
Nhìn được cái hằng thường thì biết cái bản thể”
(của vũ trụ)
“Vũ trụ biến hóa vô thủy vô chung”
(cho nên cuối cùng, quẻ thứ 64, được gọi là vị tế, nghĩa là chưa hết).
“Vật cực tắc phản”
(nghĩa là: Sự vật phát triển đến tột độ thì trở thành cái phản nó).
Lão Tử nói: “Phản giả, đạo chi động” (nghĩa là: Cái nó tự phản nó ấy, tức là sự vận động của quy luật vậy). Ta thấy rõ một số câu trên chứa đựng tư tưởng biện chứng. Tuy nhiên, thầy Cao Xuân Huy cho biết rằng có một nhà Trung Quốc học cho tư tưởng biện chứng của Kinh Dịch, Lão Tử là tuần hoàn, khác với biện chứng Mác là xoắn ốc. Vấn đề này chúng ta sẽ bàn kỹ trong phần sau, khi tìm hiểu đầy đủ các “nguyên lý cụ tượng” của nó.
Theo thầy Cao Xuân Huy, “Tư tưởng biện chứng trong Bát quái còn thô sơ. Đến đời Tống, học (1) Hà Đồ, Lạc Thư, kết tứ phương (không gian) tứ thời (thời gian) và ngũ hành, xây dựng một bức tranh tổng hợp đầy đủ về vũ trụ bằng ký hiệu và biểu tượng (tượng và số), Kinh Dịch mới được hiểu đến nơi đến chốn.
|
Riêng tôi, ẩn trong tính chất biện chứng thấy khá rõ ấy, tôi bắt gặp một yếu tố điều khiển học, đó là nguyên tắc “một đồng một mở” (“một đóng một mở là biến”). Khoa điều khiển học (Xybécnêtic), mà nhiều nhà triết học nhận định là rất gần với phép biện chứng, xem “một đóng một mở” trong mạch nội tại của cơ chế là nguyên tắc cơ bản: chính nhờ “một đóng một mở” ấy mà cái máy theo cơ chế điều khiển học có khả năng “biến” (tự điều chỉnh). Trong những cái máy theo cơ chế cơ học, đóng thì chạy, mở thì ngừng, lại theo đúng câu:
“Đóng lại là Càn (động) mở ra là Khôn (tĩnh)
(Nghĩa là: đóng lại là trời, động, mở ra là đất, tĩnh).
Như Nguyễn Hiến Lê đã giới thiệu, nhà toán học Đức, Lépních, đã phát hiện hệ nhị phân (cơ số 2) từ trong Kinh Dịch… mà hệ nhị phân với cách hiểu còn rất hạn chế của tôi, được sử dụng trong các quẻ (các ký hiệu vũ trụ học Kinh Dịch) nhằm biểu hiện sự quán triệt của nguyên lý một đóng một mở, một tên gọi khác của “một Âm một Dương”. Tuy nhiên, suy kỹ ra thì “một Âm một Dương là đạo” tức là nói về quy luật vũ trụ, còn “một đóng một mở là biến” tức là nói đến phương thức vận động ứng xử phù hợp với quy luật biến dịch. Ba giai đoạn gọi là : bất dịch, giao dịch và biến dịch, mà biến dịch là tinh thần cốt lõi của dịch học, theo tôi, tương ứng với nguyên tắc “đứng im tương đối, vận động tuyệt đối” của biện chứng Mác.
Cũng có người cho biện chứng Kinh Dịch là duy tâm, huyền bí. Cái vẻ huyền bí bị ngộ nhận ấy chính là do kiểu “ngôn ngữ cụ tượng”, “tập mờ” của nó. Thử hỏi duy tâm sao được khi nó cho rằng : “Vạn vật sinh ra bởi tiếng vang đột nhiên của sấm sét..” trong thuyết Bát quái lúc ban đầu, và “thiên nhất sinh thủy“… trong thuyết ngũ hành về sau.
Điều quan yếu nhất của phép biện chứng Kinh Dịch là chữ thời (thì). Thời là luôn theo thời thế, hoàn cảnh, tình huống cụ thể. Phan Bội Châu viết :
“Thánh nhân làm sách Dịch dạy người, cốt nhất là phải tùy “thì” (thời) mà biến dịch…Biến dịch mà cho đúng với thời, chính là tinh lý của Kinh Dịch”.
Có lẽ ý ấy cũng tương tự như ý của các học giả biện chứng. Mác nói: “Chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng chỉ có thể tồn tại một cách biện chứng”. Việc nhấn mạnh chữ “thì” trong Kinh Dịch chính là để tránh mọi cách vận dụng giáo điều. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Dĩ bất biến ứng vạn biến” chính cũng là một cách nói theo kiểu biện chứng Kinh Dịch. Nhân đây, xin nhắc lại một giai thoại rất lý thú về chữ “thời” của Dịch học: Trạng Trình, nhà Dịch học nổi tiếng của ta, khi sắp chết, có dặn con cháu: 50 năm sau, đến ngày ấy tháng ấy cho người túc trực tại mộ Ông. Khi thấy một người nào đó đến xem mộ xong nói: “Thánh nhân vô nhĩ mục” (Thánh nhân không có tai mắt) thì mời người ấy về nhà ngay và xin chỉ cho cách cải táng ngôi mộ. Vị khách là một nhà phong thủy giỏi của Trung Quốc, khuyên các cháu cụ Trạng là cải táng dặt ngược quan tài lại, đầu về phía chân, chân về phía đầu. Các cháu cụ Trạng làm theo. Khi bới mộ lên thấy trên quan tài có một viên đá khắc chữ. Đọc kỹ thì là bài thơ sau đây :
Ngũ thập niên tiền mạch tại đầu (năm mươi năm trước mạch ở ngay đầu)
Ngũ thập niên hậu mạch tại túc (năm mươi năm sau mạch ở phía chân)
Thiếu niên nhữ bối na năng tri (lớp trẻ các anh không hiểu điều ấy).
Vật vị thánh nhân vô nhĩ mục (chớ vội chê là thánh nhân không tai mắt).
Câu chuyện dù có thật hay không vẫn cho ta thấy tính chất rất động theo thời của tư tưởng Kinh Dịch, động đến nỗi đảo ngược, đầu thành chân, chân thành đầu. Ở đây mạch là cái “dĩ bất biến” và việc cải táng đảo ngược ngôi mộ là “ứng vạn biến”.
Cũng xin kể thêm một giai thoại về biện chứng Phật giáo:
Có người hỏi Phật Thích Ca về Phật pháp: cứ mỗi lần hỏi, Phật Thích Ca lại trả lời một cách khác nhau, cuối cùng người đó tỏ ý khó hiểu, xin Thích Ca cho một định nghĩa vắn tắt về Phật pháp, Thích Ca đáp :
– “Phật pháp là cái cách giúp cho con người giác ngộ”. Người ấy lại hỏi : “Vậy thưa Đức Phật cách ấy là cách gì”.
Thích Ca bảo không thể nói trước được. Người ấy tỏ vẻ khó hiểu hơn: “Tại sao lại không nói trước được?”. Phật Thích Ca bèn bảo: “Vì phải tùy duyên mà độ (tức là giúp người giác ngộ), ví dụ: với chúng sinh này một lời khuyên ngọt ngào êm ái giúp cho giác ngộ, thì lời khuyên ngọt ngào êm ái ấy là Phật pháp, nhưng đối với chúng sinh kia thì lời khuyên ngọt ngào không giúp giác ngộ, mà cái tát tai lại làm anh ta tỉnh ngộ, thì cái tát tai lại là Phật pháp”.
Ở đây giác ngộ là “bất biến”, còn lời khuyên, cái tát là “vạn biến”.
Cũng có người hỏi: thế biện chứng Dịch học, Phật học là duy tâm hay duy vật? Tôi nghĩ, bước đầu cũng có thể chưa thật chín rằng:
– Ở Dịch học, phải đến bốn lượt sinh trưởng của Âm Dương, đến Bát quái mới thấy có dấu vết của con người, thế thì tồn tại có trước, thế là duy vật chứ gì?
– Ở Phật học “Tứ Đại” cũng có trước rồi mới đến “Sắc Không”, mới đến”tứ khổ”, “tứ diệu đề”, thế thì duy vật được chứ?
Tuy nhiên, xin dành lại cho những ý kiến chín chắn hơn, sau khi tìm hiểu đầy đủ hơn. Hầu hết các nhà nghiên cứu Kinh Dịch đều thừa nhận tư tưởng triết học của Kinh Dịch là duy vật biện chứng; xin hãy tạm bằng lòng như thế, sẽ bàn kỹ hơn . . .
(Còn tiếp)
>> Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống (P2)
>> Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống (P3)
>> Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống (P4)
>> Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống (P5)
>> Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống (P6)
>> Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống (P7)
>> Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống (P8)
>> Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống (P9)
>> Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống (P10)